“Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi”
Hồ Dzếnh, 1943.
Đây là khổ cuối bài “Cảm xúc” trong tập thơ Quê ngoại của nhà thơ thích dở dang, lửng lơ kiểu “cho nghìn sau.. lơ lửng với nghìn xưa...”. Cụ ấy tên thật là Hà Triệu Anh (âm Quảng Đông là Hồi-Tsìu-Ding)...
Thấy chữ "hy sinh" mình cũng thắc mắc nên cố công tra thử trong từ điển Hán Việt Thiều Chửu thì thấy gốc từ chữ Hán như thế này 犧牲.
Hy là con muông thuần sắc dùng để cúng tế gọi là hy. Ngày xưa, vua Thang cầu mưa, tự phục trước miếu thay làm con muông để lễ, vì thế người ta quen gọi những người bỏ cả đời mình đi để làm cho đạt một sự gì là hy sinh 犧牲 .
Sinh là muông sinh. Con vật nuôi gọi là súc 畜, dùng để cúng gọi là sinh 牲.
Tây thì bảo hy sinh là "to make sacred", Từ điển Oxford hay Merriam Webster thì định nghĩa sacrifice (gốc latin sacrificium) là từ bỏ những thứ quan trọng, có giá trị để đạt được điều quan trọng hơn; thứ dâng hiến cho thượng đế để nó trở thành linh thiêng, thánh vật...
Hèn chi phụ nữ ngay khi sống cũng là khi đang trở thành thánh.
No comments:
Post a Comment